Chế độ Vệ Sở (募兵制) Quân đội nhà Minh

Pháo thủ quân Minh.Đội hình Uyên Ương Trận trong Kỷ Hiệu Tân Thư

Chế độ Vệ Sở được hoàng đế khai quốc nhà Minh Chu Nguyên Chương thiết lập là chế độ quân sự địa phương thế tập lấy cảm hứng từ Phủ binh chế của Bắc Ngụy, Tùy, Đường và Vạn hộ chế của nhà Nguyên.[11] Những binh sĩ thế tập được cấp ruộng đất từ các đồn điền quân sự tự cung tự cấp. Binh sĩ trong các vệ sở luân phiên thực hiện canh tác đất đai trong ruộng đất được cấp ở đồn điền quân sự và tập trung về các doanh trại tại địa phương hoặc kinh đô để huấn luyện chiến đấu và sử dụng hỏa khí.[12]

Về mặt cơ cấu, binh sĩ Vệ sở được cơ cấu như sau. 11 đến 12 người lập thành một Tiểu kỳ (小旗), 5 tiểu kỳ lập thành một Tổng kỳ (總旗), 2 Tổng kỳ kỳ lập thành một Bách hộ sở (百戶所), 10 Bách hộ sở lập thành một Thiên hộ sở (千戶所), 5 thiên hộ sở lập thành một Vệ. Như vậy mỗi vệ bao gồm 5600 người.[12] Các vệ sở do Ngũ Quân Đô Đốc Phủ và Binh bộ quản lý.

Về nguồn tuyển binh, binh sĩ trong vệ sở được chọn từ các quân hộ thế tập, chiếm khoảng 20% số hộ khẩu toàn quốc đầu triều Minh[13] Mỗi quân hộ cử một tráng đinh gia nhập Vệ sở, nếu người đó chết thì phải cử một tráng đinh khác thay thế.[14]

Có bốn cách để một hộ gia đình trở thành quân hộ. Thứ nhất, đó là gia đình có người từng tham gia khởi nghĩa sáng lập triều đình.[15] Thứ hai, đó là những hộ gia đình có người từng chiến đấu chống lại nhà Minh, có thể từ nhà Nguyên hoặc các quân phiệt khác, nhưng đã đầu hàng và được tiếp nhận vào quân Minh.[15] Thứ ba, đó là những tù nhân bị kết án vào phục vụ trong quân đội,[15] tuy nhiên vào thế kỷ XV, phương thức này không còn được áp dụng do hình phạt phục vụ quân ngũ không còn được thực hiện thế tập. Cuối cùng, đó là gia đình có người tình nguyện đăng ký quân dịch.[15]

Sự suy tàn của chế độ Vệ Sở

Địa vị xã hội của một quân nhân trong xã hội nhà Minh là vô cùng thấp kém. Võ quan, dù cho quan hàm hay quan chức thế nào, không chỉ có địa vị thấp hơn và chịu sự giám sát của văn quan, mà các tướng lĩnh cùng với binh sĩ còn bị đối xử bất công, bị nghi kỵ, ganh ghét. Những người đi lính, thậm chí tham gia võ cử bị xem là không có uy vọng bằng những văn nhân tham gia khoa cử do chế độ quân hộ thế tập và vì phần đông binh sĩ mù chữ.[16]

Kể từ sau thời Chính Thống đến giữa thời Gia Tĩnh (khoảng từ năm 1450 đến năm 1550), chế độ Vệ Sở rơi vào tình trạng suy thoái và năng lực chiến đấu của binh lính trong các quân hộ thế tập thuộc các vệ sở bị suy giảm trầm trọng do tham nhũng và quản lý yếu kém. Tình trạng tướng lĩnh, địa chủ, quan lại tước đoạt ruộng đất của binh sĩ khiến đời sống binh sĩ vô cùng khó khăn, đào ngũ thường xuyên xảy ra. Một số vệ sở thì binh lính hoặc quá già yếu, hoặc sức khỏe không đảm bảo có thể chiến đấu. Sổ sách nhà Minh ghi nhận số đăng ký binh lính vệ sở lên đến 3 triệu người, nhưng số lượng thực tế chỉ đạt khoảng 84,5 vạn người và 3 vạn kỵ binh.[17] Binh sĩ còn phải thực hiện nhiều công việc không hề liên quan đến chiến tranh. Một trong những nhiệm vụ quân sự đầu thời Minh đó là canh tác ruộng đất.[18] Nhiều binh sĩ thường xuyên phải làm những công việc chỉ để phục vụ lợi ích riêng cho các tướng lĩnh[19]. Ngoài ra binh sĩ còn được tận dụng để vận chuyển lương thảo trên khắp đất nước. Thực tế họ không khác gì những nhân công làm thuê thay vì là một người lính thực sự.[20] Các tướng lĩnh, địa chủ, cường hào, thậm chí quan lại đã lợi dụng quyền lực chiếm đoạt ruộng đất đồn điền và biến nó thành điền trang của họ, sau đó buộc các binh sĩ trở thành tư nô cày cấy cho họ. Hòa bình lâu dài, trừ những khu vực biên cương nơi phải chiến đấu chống lại các bộ tộc du mục, đã khiến binh sĩ trong các quân hộ thế tập không muốn tham gia quân đội nữa và phải hối lộ cho các tướng lĩnh để trốn thực hiện huấn luyện. Tham nhũng từ vệ sở đó phát triển đến mức những phú thương muốn thâu tóm ruộng đất cũng lợi dụng kẽ hở để hối lộ cho các quan lại nhằm kiếm một chức vụ chỉ huy trong vệ sở, khuyến khích binh sĩ hối lộ để không phải tham gia chiến trận hoặc huấn luyện, hoặc tiến hành khai khống số lượng binh sĩ để tham ô quân lương triều đình phát xuống.[11]

Bản thân nghề lính không thể mang lại lợi ích nên để có thêm thu nhập binh sĩ phải dựa vào những hoạt động khác. Phương pháp đơn giản nhất đó là phải tiêu diệt nhiều quân địch, với mỗi quân địch giết địch sẽ tăng thêm phần thưởng cho binh sĩ lập công.[21] Một số binh sĩ đà đào ngũ khỏi vệ sở và trở thành giặc cướp bởi vì không đủ lương thực để nuôi sống bản thân và gia đình.[22]

Một vấn đề phức tạp khác đó là những binh sĩ cùng quân hàm lại không có cùng quyền hạn. Những binh sĩ giàu có hơn có thể hối lộ cấp trên để có vị trí tốt hơn và hưởng nhiều quyền lợi hơn người khác trong vệ sở.[23]

Vì hầu hết quân hộ không muốn phục vụ trong quân đội, những tráng đinh trong các quân hộ được chọn đi tòng quân có thể nhận được một số khoản bồi thường từ các tráng đinh khác trong gia đình. Ví dụ, họ có thể trở thành người thừa kế tiếp theo ngay cả khi họ không phải là con trưởng, bằng cách tình nguyện tòng quân. Do người được thừa kế có trách nhiệm quan trọng trong gia tộc, do đó địa vị xã hội của người đó sẽ được nâng cao do được kế thừa các đặc quyền của cha mình.[24] Trong một quân hộ, những tráng đinh tòng quân ở những vùng đất cách xa quê nhà của họ thường dẫn đến mối quan hệ của họ với gia tộc bị suy giảm.[25] Để chống lại điều này, một khoản trợ cấp được phát cho những người binh sĩ đang tòng quân trong một nỗ lực nhằm giảm tỷ lệ đào ngũ của những người lính phục vụ trong vệ sở và giúp duy trì mối liên kết giữa gia đình của người lính với tổ tiên của họ.[26] Khoản trợ cấp đã tạo ra lý do để các thành viên gia đình của người lính thường xuyên về thăm nhà tổ tiên của họ để thu tiền thanh toán và do đó duy trì mối quan hệ của họ.

Tuy nhiên cũng có một số địa phương có quan điểm khác nhau về chế độ quân sự. Ở khu vực biên giới do chiến tranh nên các Vệ sở tại đây tiến hành chế độ mộ binh (募兵制 - Mộ binh chế), theo đó binh sĩ được tuyển chọn không phân biệt vùng miền, chế độ này mặc dù làm gia tăng chi phí quân sự nhưng bù lại năng lực chiến đấu của binh sĩ trong vệ sở được cải thiện. Ví dụ ở huyện Nghĩa Ô, danh tướng Thích Kế Quang đã tiến hành tuyển quân với xuất thân rất đa dạng, từ nông dân cho đến những học sinh Thái học tại địa phương.[27] Điều này đã tạo nên tiềm năng phát triển lực lượng quân sự và đã đạt được những thành quả đáng được ghi nhận.[28]

Thủy Sư

Bản in khắc gỗ mô tả Hạm đội Bảo Thuyền

Hải quân không phải là một thực thể tách rời trong chế độ quân sự nhà Minh và nó là một phần của hệ thống vệ sở. Mỗi vệ sở duyên hải được bố trí 50 chiến thuyền để phục vụ công tác phòng ngự trên biển. Nhà Minh còn thiết lập hệ thống chướng ngại, phong hỏa đài, pháo dài, dân quân và hải quân.[29] Trớ trêu thay, hệ thống phòng ngự trên biển này không thể ngăn chặn được những đợt cướp bóc của Oa Khấu, và tình trạng đó ngày càng trở nên xấu đi trong suốt thời Gia Tĩnh cho đến khi được giải quyết bởi những danh tướng như Du Đại DuThích Kế Quang.[30] Thiếu Lâm Tự cũng tham gia vào hoạt động chống cướp biển, cụ thể như trận chiến vào năm Gia Tĩnh thứ 32 (1533), 120 tăng binh Thiếu Lâm đã đánh bại 100 Oa khấu với chỉ 4 người thương vong.[31]

Các hoạt động quân sự trên biển của nhà Minh bị hạn chế đáng kể. Hồng Vũ đế khi thành lập nhà Minh đã nhất mạnh rằng "không một tấm ván nào được phép đóng xuống biển".[30] Tuy nhiên dưới thời Hồng Vũ đế, quân cảng Long Giang đã được ông ta cho xây dựng ở Nam Kinh và nơi đó sau này đã xây dựng nên Hạm đội Bảo Thuyền nổi tiếng. Hải quân nhà Minh còn được trang bị hỏa khí gồm pháo và súng tay, đánh dấu cho sự hình thành hải quân sử dụng vũ khí nóng sớm nhất thế giới. Do đó, hải quân nhà Minh được đánh giá là lực lượng hải quân hàng đầu thế giới vào thời điểm đó.[32]

Hồng Vũ đế đã ra lệnh thiết lập 56 vệ thủy sư, mỗi vệ gồm 50 chiến thuyền và 5000 thủy quân. Tuy nhiên hầu hết lực lượng này chiến lực tương đối yếu. Quy mô hải quân nhà Minh sau đó đã được mở rộng dưới thời Vĩnh Lạc. Hải quân nhà Minh lúc này được chia thành hạm đội hoàng gia đóng tại Nam Kinh, hai hạm đội duyên hải bao gồm hạm đội Tây Dương của Trịnh Hòa và hạm đội vận chuyển lương thực.[33]

Sau các cuộc viễn dương của Trịnh Hòa dưới thời Vĩnh Lạc, chính sách mở rộng lực lượng thủy sư bị lung lay do những nguyên nhân chủ quan và khách quan.[30] Bất chấp mâu thuẫn trong nội bộ triều đình nhà Minh với vấn đề hải quân, Hạm đội Bảo thuyền vẫn có thể thống trị những lực lượng hải quân châu Á khác, điều này cho phép nhà Minh cử các quan lại hoặc thiết lập tuyên úy sứ cai trị Luzon và Palembang, cũng như can thiệp vào nội bộ các quốc gia ở Sri Lanka và Bataks.[32] Năm 1521, trong Hải chiến Đồn Môn, hạm đội thủy sư Đại Minh đã đánh bại hạm đội của người Bồ Đào Nha, mà ngay sau đó thủy sư nhà Minh đã thắng người Bồ Đào Nha trong trận hải chiến Tây Thảo Loan vào năm 1522. Năm 1633, thủy sư nhà Minh một lần nữa đánh bại hải đội của người Hà Lan và cướp biển tại Hải chiến Liêu La Loan. Một số lượng lớn những luận thuyết quân sự, bao gồm những thảo luận, đánh giá về tác chiến hải quân được xuất bản, bao gồm Võ Bị ChíKỷ Hiệu Tân Thư.[34] Ngoài ra, các xác thuyền đắm đã được tìm thấy ở Biển Đông, bao gồm xác thương thuyền và chiến thuyền Trung Hoa chìm vào khoảng năm 1377 và 1645.[35]

Gia binh

Gia binh, có thể gọi là tư binh, là những binh sĩ chỉ phục vụ và tuân lệnh cấp trên trực tiếp của họ. Sự tồn tại của lực lượng thân binh thách thức quan điểm cơ bản của quân đội nhà Minh vì nó trái với tư tưởng quân đội phải trung thành tuyệt đối với hoàng đế và triều đình.[36]

Cấu trúc lãnh đạo quân sự

Các vệ sở nằm ngoài khu vực kinh đô (Bắc Kinh, Nam Kinh, Trung Đô Phượng Dương) được đặt dưới sự quản lý của các Đô chỉ huy sứ ty tại các địa phương. Còn lực lượng tại kinh đô nằm dưới sự quản lý của Binh Bộ và Ngũ Quân Đô Đốc Phủ, theo đó Binh bộ nắm quyền quân lệnh nhưng Ngũ Quân Đô Đốc Phủ nắm quyền thống binh, điều này phản ánh cho sự kiềm chế lẫn nhau trong bộ máy quân sự Trung Hoa thời nhà Minh nhằm tránh việc quân đội nắm quá nhiều quyền lực.[29]

Các võ quan được tuyển chọn thông qua các kỳ Võ Cử do triều đình tổ chức, trong đó phần kỹ năng võ học nhấn mạnh vào các khả năng cưỡi ngựa bắn cung, tuy nhiên điều này không đủ để có những võ quan chất lượng. Dù vậy, những kỳ võ cử cũng đã tạo nên không ít tướng lĩnh tài năng như Thích Kế Quang, Du Đại Du, Mã Sĩ Long, Ngô Tương, Ngô Tam Quế.[37]

Vào hậu kỳ nhà Minh, chế độ Vệ sở thối nát đỉnh điểm, quân đội dựa vào các thế lực thế tập thay vì được luân chuyển theo chế độ của triều đình, và Ngũ Quân Đô Đốc Phủ đã không thể kiểm soát được quân đội tại các tỉnh nữa. Các tổng Đốc quân vụ, thiết lập từ thời Thành Hóa (1465 - 1487) được bổ nhiệm đến các tỉnh nhằm quản lý vấn đề tài chính và quân sự tại các địa phương, dần trở thành những thế lực quân sự tự trị.[11][38]

Các phiên vương được hoàng đế cử đến lãnh địa được phong có quyền thống lĩnh quân đội tại đó. Tại các lãnh địa phiên vương có quyền mộ binh và xây dựng lực lượng thân binh cho riêng mình (đến năm 1395 quyền lực này đã bị hạn chế). Hệ thống phân phong nhằm mục đích tăng cường khả năng chiến đấu của quân đội này từ lâu đã không được các triều đại trước đó sử dụng.[39] Các phiên vương cũng tham gia vào các chiến dịch quân sự mà triều đình tổ chức. Yên vương Chu Lệ trấn giữ Bắc Bình đã tạo ấn tượng tốt với Hồng Vũ đế trong các chiến dịch Bắc phạt, thậm chí được phép giữ riêng 1 vạn tù binh Mông Cổ sau khi kết thúc chiến dịch, mà trớ trêu thay những hàng quân Mông Cổ này lại đóng vai trò quan trọng trong kế hoạch đoạt ngôi báu của ông. Trong một số trường hợp thì các phiên vương cũng được bổ nhiệm vào các chức vụ đang chưa có người thay thế, ví dụ như Tần vương Chu Sảng được cử đi thiết lập các đồn điền và cứ điểm bên ngoài Trường Thành.[40] Các phiên vương luôn được phép mang theo thân binh, trong khi các quan lại được triều đình cử xuống chỉ được sử dụng lực lượng tại chỗ, mà các phiên vương chỉ có quyền trong những trường hợp khẩn cấp do Hoàng đế tuyên bố. Chuỗi lệnh kép này nhằm ngăn chặn một cuộc đảo chính ở thủ đô. Lực lượng đồn trú chỉ có thể được triển khai khi có lệnh mang cả con dấu của Hoàng đế và phiên vương. Các đội quân của Đô chỉ huy sứ ty sau đó được sử dụng để giám sát lực lượng quân đội của các phiên vương. Nhiều phiên vương đã tích lũy lực lượng quân đội riêng biệt và sử dụng quân đội của triều đình mà không cần ủy quyền trong các chiến dịch quân sự.[41] Quyền lực của các phiên vương dần suy giảm bắt đầu từ chính sách triệt phiên của Kiến Văn đế, sau đó được Vĩnh Lạc đế kế tục ngay sau khi chính ông ta lật đổ cháu của mình. Trong những năm Vĩnh Lạc (1402 - 1424), các phiên vương hoặc bị phế bỏ, hoặc bị dời vào trong nội địa; cho đến hậu kỳ nhà Minh đã không còn nhiều phiên vương nắm thực quyền. Quyền thống lĩnh quân sự được Vĩnh Lạc đế giao cho tầng lớp công khanh huân thích, bao gồm những người đi lên từ quân đội và trở thành tầng lớp quý tộc thế tập. Tuy nhiên, quyền thống lĩnh của họ chỉ được thực thi khi triều đình tiến hành các chiến dịch chinh phạt và bình loạn, sau khi kết thúc phải giao trả binh quyền nhằm ngăn chặn việc hình thành quyền lực cá nhân đe dọa đến hoàng đế.[42]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Quân đội nhà Minh http://www.history.ubc.ca/sites/default/files/docu... http://www.armchairgeneral.com/confederate-boys-an... http://greatmingmilitary.blogspot.com/2015/02/plat... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/198577/e... http://www.history-science-technology.com http://www.history-science-technology.com/Articles... http://muse.jhu.edu/login?auth=0&type=summary&url=... http://www.atarn.org/training/chinese_archery_bckg... http://www.san.beck.org/3-7-MingEmpire.html //dx.doi.org/10.1353%2Flate.2004.0010